Chữa đau răng theo Đông y
Khám bệnh Online hoàn toàn miễn phí bởi Lương y Nguyễn Hùng
Xem tử vi năm 2016 Bính Thân cho 12 con Giáp dựa theo ngày sinh !!!
Sau đây là một số dược thảo có thể dùng trong trường hợp bị sâu răng, đau nhức răng lợi.
Vỏ cây xoài:
Vỏ xoài 3 miếng, mỗi miếng bằng cỡ bàn tay, cạo bỏ phần vỏ bên ngoài, xắt nhỏ, nấu với 750ml nước, sắc còn 300ml. Cứ 3 phần nước thuốc thì thêm 1 phần rượu, cho vào chai, bảo quản để dùng dần.
Mỗi lần lấy 50ml, ngậm khoảng 10 phút, thỉnh thoảng súc miệng rồi nhổ đi. Ngày dùng 4 lần vào buổi sáng, tối (trước khi đi ngủ) và sau 2 bữa ăn chính.
Hoặc dùng:
Vỏ thân cây xoài 3 phần, trái me chua 1 phần, trái bồ kết 1 phần.
Tất cả sấy khô, sao thơm, tán thành bột mịn, lấy đầu tăm chấm thuốc vào chỗ răng đau.
Lá lốt:
Theo Đông y, lá lốt có vị cay, mùi thơm, tính ấm. Tác dụng ôn trung (làm ấm tỳ vị), tán hàn (làm tan khí lạnh), hạ khí, chỉ thống (làm hết đau). Thường dùng chữa phong hàn thấp, tay chân lạnh, tê bại; các khớp đau nhức; rối loạn tiêu hóa, nôn mửa, đầy hơi, sình bụng, đau bụng tiêu chảy; thận và bàng quang lạnh; đau răng; đau đầu; chảy nước mũi hôi, tiêu chảy.
Để chữa đau răng, dùng 30 – 40g lá lốt khô (80 – 100g lá tươi), hoặc dùng thân, hoa và rễ, nấu lấy nước đậm dặc, hòa với ít muối hột, để nguội rồi ngậm 1 – 2 phút, súc miệng và nhổ bỏ. Ngày súc miệng 3 – 4 lần.
Nước nấu lá lốt còn được dùng để ngâm tay chân chữa đau xương, thấp khớp, tê thấp, đổ mồ hôi tay chân.
Cây rau bợ:
Cây rau bợ còn gọi là cỏ bợ, rau bợ nước, thủy tần, cỏ chử điền (điền tự thảo), tứ diệp thảo, dạ hợp thảo… tên khoa học Marsilea quadrifolic L. thuộc họ rau bợ (Marrileaceae).
Để làm thuốc có thể dùng cây tươi hoặc phơi khô, bảo quản nơi khô ráo.
Theo Đông y, rau bợ có vị ngọt, hơi đắng, tính mát, không độc, tác dụng thanh nhiệt, lợi tiểu, tiêu sưng, giải độc, nhuận gan, làm sáng mắt. Thường dùng chữa viêm thận, phù chân, viêm gan, viêm kết mạc, suy nhược thần kinh, sốt cao, mất ngủ, sưng đau lợi răng, mụn nhọt, sưng vú, tắc tia sữa, khí hư bạch đới, thổ huyết, đi tiểu ra máu, sỏi thận, sỏi bàng quang, đái tháo đường.
Chữa đau răng, mụn nhọt do nhiệt độc: rau bợ tươi 50 – 80g, rửa thật sạch, thêm 500ml nước, sắc còn 200ml, chia 2 – 3 lần uống trước bửa ăn.
Cây rau bợ
Cây bồ đề:
Cây bồ đề gọi là cây đề, tên khoa học Ficus religiosa L., thuộc họ dâu tằm (Moraceae).
Theo phân tích, trong vỏ cây bồ đề có chứa 4% chất tanin. Mủ có chứa nhựa, trong mủ đông khô có 85% nhựa và 12% cao su.
Vỏ cây có tác dụng làm săn da. Ở Trung Quốc, người ta sắc nước vỏ cây bồ đề để làm thuốc súc miệng làm cho chắc răng và trị đau răng.
Ở Ấn Độ, vỏ được dùng để trị bệnh lậu, nước pha vỏ dùng uống trị nhiệt độc.
Ở Việt Nam, người ta thường dùng vỏ cây nấu nước rửa để trị lở loét và bệnh ngoài da.
Vỏ cây bồ đề cũng có thể thay thế vỏ cây chay để ăn với trầu cau cho chắc răng.
Nước sắc vỏ rễ và vỏ thân còn dùng làm thuốc ngậm chữa đau răng.
Để chữa đau răng, dùng vỏ rễ hoặc vỏ thân cây bồ đề 20 – 60g sắc với nước rồi ngậm, súc miệng 2 – 3 lần trong ngày.
Cây mè:
Cây mè còn gọi là vừng, hồ ma, tên khoa học Sesamum indicum L. thuộc họ Vừng (Pelaliaceae).
Chữa nướu răng bị sưng nhức: lấy 100g hạt mè nấu với 750ml nước, sắc còn 200ml, dùng để ngậm hồi lâu rồi súc miệng nhổ bỏ, ngậm nhiều lần trong ngày.
Cây gạo:
Cây gạo còn gọi là bông gạo, mộc miên, gòn, roca (Campuchia), ngiou (Lào), kapokier du Tonkin, kapokier du Malabar, tên khoa học Bombax ceiba L. (B. malabaricum DC.), thuộc họ Gạo (Bombacaceae).
Vỏ cây gạo có vị đắng, tính mát, tác dụng lợi tiểu, tiêu sưng, gây nôn. Thường dùng chữa thấp khớp, dùng vỏ tươi giã nát bó nơi bị đụng giập, gãy xương; sao vàng sắc đặc để uống giúp cầm máu trong các chứng băng huyết (thương phối hợp với hạt cây lười ươi), thông tiểu.
Người ta bóc vỏ thân, cạo bỏ lớp thô và gai, rửa sạch, xắt nhỏ, phơi hoặc sấy khô để bảo quản; thường giã nát để dùng tươi.
Ngày dùng 15 – 30g khô, sắc uống. Có thể sắc đặc và ngậm chữa đau răng.
Nước muối biển:
Sách Nam dược thần hiệu của Tuệ Tĩnh dùng muối chữa các chứng khí nghịch, tích đờm, đau bụng do nhiệt kết trong ruột và dạ dày, giết trùng độc, tiêu phù thũng, sưng lở. Muối còn được dùng để chữa đau răng, mắt đỏ, táo bón, gây nôn mửa, chữa hạ bộ bị lở và pha nước muối + đường uống khi bị mất nước do thổ tả.
Chữa răng lung lay, lợi bị lở: nấu nước muối loãng, ngậm 3 – 4 lần trong ngày, ngậm luôn trong 5 ngày.
Theo sách Từ Hy Quang Tự y phương tuyển nghị của Trần Khả Dực, vào đời Thanh, các quan ngự y trong cung đình là Trương Trọng Nguyên và Đào Bảo Sinh đã dùng muối để chế thuốc cho Từ Hy thái hậu dùng để làm cho răng chắc, mắt sáng.
Cách bào chế như sau:
Muối sạch 1kg, hòa với nước sôi, lóng lấy nước muối trong, cho vào cái cốc to bằng bạc, nấu cho khô rồi tán bột, cho vào lọ sành, gốm, dùng dần. Mỗi buổi sáng lấy 3g xoa vào chân răng, mặt răng, một chốc lại súc miệng nhổ ra. Đồng thời dùng ngón trỏ của 2 tay lấy nước bọt trong miệng xoa lên bờ mi mắt, nhắm mắt lại một chốc sau đó mới rửa mặt.
– Bột phòng ngừa sâu răng, làm răng bền chắc (sách Thương y đại toàn của Cố Thế Trừng đời Thanh).
Muối ăn 120g, xuyên tiêu 60g, hạn liên thảo (cây cỏ mực) 60g, khô bạch phàn (phèn phi) 30g.
Cách chế:
Đầu tiên lấy 2 chén nước sắc hạn liên thảo và xuyên tiêu cho chín kỹ, lọc còn khoảng 1 chén, hòa muối và phèn phi vào, đun cho khô nước, lấy phần lắng đem ra nghiền bột để dùng. Mỗi lần dùng, lấy bột xoa lên răng rồi súc miệng. Ngày làm 2 – 3 lần. Dùng lâu răng sẽ bền chắc.
Theo Suckhoedoisong
Leave a Reply